CỐ LINH MỤC NHẠC SĨ HOÀI ĐỨC 1923–2007

Thứ năm - 19/09/2019 10:52
Nhân kỷ niệm 12 năm ngày mất của tác giả Bài Thánh ca bất hủ CAO CUNG LÊN, BBT Trang tin GXCS hân hạnh giới thiệu cùng Quý Bạn đọc những Bài viết về Cha cố Giuse Lê Đức Triệu (01.7.1922 Nam Định + 07.07.2007). Ngài được đến nhiều với vai trò là một nhạc sĩ công giáo với bút hiệu là Hoài Đức, và nguyên là Tổng Thư ký thường trực Ủy ban Thánh nhạc toàn quốc, nguyên chủ tịch phong trào “Công lý hòa bình” Ban Mê Thuột. Giám đốc Caritas giáo phận Ban Mê Thuột”
Tượng bán thân Linh mục Giuse Lê Đức Triệu nhạc sĩ Hoài Đức đặt tại khuôn viên tu viện “Anh Em Đức Mẹ Người Nghèo”.
Tượng bán thân Linh mục Giuse Lê Đức Triệu nhạc sĩ Hoài Đức đặt tại khuôn viên tu viện “Anh Em Đức Mẹ Người Nghèo”.

LINH MỤC NHẠC SĨ HOÀI ĐỨC1923–2007
Bài viết của NHẠC SI HẢI ÁNH
Tháng 09 năm 2003

Lời giới thiệu Linh mục nhạc sĩ Hoài Đức, tức Cha cố Giuse Lê Đức Triệu, một cộng tác viên trang Thánh Ca Việt Nam trên website simonhoadalat.com ngay từ những ngày đầu. Nhân ngày cha được Chúa gọi về, chúng tôi hân hạnh giới thiệu đôi nét và những đóng góp của Cha vào nền Thánh Ca Công giáo Việt Nam. Bài viết do nhạc sĩ Hải Ánh, người học trò cũ của chủng viện Piô XII ghi lại, như một lời hiệp thông với tang quyến, linh tông và nền Thánh Ca Công giáo Việt Nam; và là lời tri ân đến Cha Cố Giuse.

A 1*VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI.
Cha Hoài Đức sinh ngày 01 tháng 07 năm 1923 (theo giấy khai sinh) tại xã Vĩ Nhuế phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định (ngày nay là xã Yên Đồng tỉnh Nam Hà). Xã Vĩ Nhuế cũng là nơi giáo quyền xây dựng Giáo xứ Kẻ Nấp. Năm 1938 chu bé Hoài Đức tốt nghiệp Sơ học Pháp Việt và vào Tiểu Chủng Viện Hoàng Nguyên cũng năm này. Sau 06 năm theo học, thầy Hoài Đức được cử về giúp xứ Bút Đông. Ngày 01 tháng 09 năm 1945, nhập Đại Chủng Viện Xuân Bích Hà Nội. Mới chưa qua một tháng, nhân biến cố Quân đội Nhật tiến đánh Đông Dương, Quân đội Trung Hoa chiếm Đại Chủng Viện, các thầy được lệnh tản cư. Tháng 09 năm 1946, Đại Chủng Viện mở cửa lại, thầy Hoài Đức cùng các thầy trở về tiếp tục tu học. Lúc bấy giờ, cha Bề trên và các cha giáo đều là người Pháp. Công việc học hành chỉ được 03 tháng thì phong trào toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Các linh mục người Pháp bị câu lưu. Các thầy được lệnh sơ tán về các địa phương xa Hà Nội. Thầy Hoài Đức trở về lại Bút Đông, giúp cha Trần Tiến Đức. Thời gian này mới có bút hiệu là Hoài Đức, theo thầy kể thì bút hiệu này là để tỏ lòng mến thương cha Trần Tiến Đức...
Thời gian tản cư kéo dài từ tháng 12 năm 1946 tới tháng 10 năm 1948, sau đó thầy Hoài Đức trở về Đại Chủng Viện Xuân Bích để tiếp tục học 04 năm (Triết học và Thần học). Vì mới tản cư về, thầy Hoài Đức cần phải có căn cước, nên lấy tên là Lê Đức Triệu, cũng nhân đó khai luôn bút hiệu Hoài Đức vào tờ căn cước. Không biết khi mới sinh ra, cha mẹ thầy đặt cho thầy tên gì. Người viết nghe đâu tên thầy là Lê Danh Hích (?). Sau 04 năm học ở ĐCV, thầy Hoài Đức đã lãnh nhận 04 “chức nhỏ”. Và vì bệnh suy tim nên Đức Cha Trịnh Như Khuê đã chỉ định thầy đi giúp các xứ Kẻ Noi, rồi Sở Kiện... Vì tình hình chiến sự, thầy Hoài Đức bỏ Sở Kiện tìm cách về lại Hà Nội. Niên học năm 1952, thầy được bổ nhiệm là giáo sư Tiểu Chủng Viện Piô XII (ở Quần Ngựa), lúc ấy Cha Nguyễn Huy Mai đang là Hiệu trưởng Trường Dũng Lạc, được bề trên chuyển lên làm Giám đốc Chủng viện.
Biến cố “chia đôi đất nước” 20-07-1954 xảy đến. Và ngày 18-07-1954, toàn bộ Tiểu Chủng viện Piô XII lên tàu thủy vào Nam. Trong đó có thầy Hoài Đức. Địa chỉ sau cùng của Chủng Viện Piô XII là 223 Nguyễn Tri Phương Chợ Lớn. Thầy Hoài Đức là giáo sư ở đây (thầy giáo nhạc là chính) cho tới đầu niên học 1957. Thầy về lại Đại Chủng Viên Xuân Bích tọa lạc tại Thị Nghè (trong chuyến tầu di tản vào miền Nam có cả Đại Chủng Viện này). Sau khi hoàn tất chương trình “đào tạo linh mục”, thầy được chuyển lại Chủng Viện Piô XII dạy học. Và ngày 06 tháng 06 năm 1960 (?) thầy được thụ phong linh mục. Vẫn tiếp tục làm cha giáo kiêm giám luật tại Chủng Viện Piô XII.
A 2Năm 1966, Chủng Viện Piô XII chấm dứt hoạt động theo lệnh Toà Thánh, cha Hoài Đức được thuyên chuyển lên Giáo phận Kontum làm cha giáo tại Tiểu Chủng Viện Thừa Sai, năm sau được bổ nhiệm Phó Bề trên kiêm Quản lý Chủng Viện. Hết niên học 1967–1968, cha được chuyển về Saigon đảm nhận chức vụ Thư ký Thường trực Ủy ban Thánh nhạc Toàn Quốc do đề nghị của Đức Cha Phạm Văn Thiên, đặc trách Phụng vụ và Thánh nhạc. Thánh 07 năm 1969, cha đã từ nhiệm chức vụ này và được thuyên chuyển lên Ban Mê Thuột làm quản lý tài sản Nhà Chung Ban Mê Thuột. Lúc ấy Đức Cha Nguyễn Huy Mai đang cai quản Giáo phận này. Ở đây cha Hoài Đức kiêm nhiệm Giám đốc Cơ quan Từ thiện Caritas, Chủ tịch phong trào Công lý và Hoà bình. Với những trách vụ kể trên, cha Hoài Đức đã cố gắng xây dựng các cơ sở giáo phận như tu viện, tập viện, nhà dưỡng lão, quán cơm xã hội, khai thác đồn điền cà phê, phân phối các phẩm vật cứu trợ ...
Tháng 03 năm 1975, Cách mạng “Giải phóng” Ban Mê Thuột, Đức cha Mai và cha Hoài Đức đã ở lại, không di tản. Thời gian này cả hai vị đã gặp rất nhiều khó khăn ... Và ngày 14 tháng 01 năm 1977 cha Hoài Đức khăn gói lên đường vào trại cải tạo Méval Đắc Lắc. Ở trại này được vài tháng, cha được chuyển ra ngoài Bắc. Sau nhiều lần chuyển từ trại này qua trại khác, năm 1979 cha Hoài Đức cùng một số cha khác (khoảng 20 vị) “định cư” tại trại Thanh Cẩm Thanh Hoá. Tại trại này, cha Hoài Đức bị bệnh “tai biến mạch máu não”, nhờ một bạn tù người Hoa chữa trị, bệnh thuyên giảm, nhưng sức khoẻ từ đó kém đi rất nhiều.
Tháng 11 năm 1987, cha Hoài Đức được thả về cùng với khoảng 50 bạn tù. Cha đi thăm bà con, một số các đấng bậc trong giáo quyền miền bắc. Sau cùng cha ở lại nhà người em họ tại số 491 / 74A Lê Văn Sĩ Phường 12 Quận 3 Saigon. Đây là nơi cha được chỉ định cư trú, theo lệnh chính quyền. Nơi đây, trong thời gian này, các anh em nhạc đoàn đã liên lạc với cha, kể cả một số anh em nhạc sĩ trẻ có cảm tình với nhạc đoàn xưa nay. Và Cung Thánh 17 đã được chuẩn bị trong “thầm lặng”... Vào khoảng năm 1997, bệnh cũ lại bộc phát, cha bị á khẩu, toàn thân dần dần tê liệt và cha đã được chuyển về nhà Hưu Dưỡng Hà Nội (116 / 3 Hùng Vương, P.9, Q.5 Tp HCM).
Ở nước ngoài, hai lần về thăm cha, năm 1998, tôi gặp cha trong tình trạng không nói được, nhưng vẫn viết được. Năm 2000, hai vợ chồng chúng tôi về thăm cha. Cha hoàn toàn không nói cũng chẳng viết được nữa, chỉ gật hoặc lắc đầu. Trong những tiếp xúc chỉ là nước mắt và nước mắt. Nước mắt của cha và nước mắt của chúng tôi! Ngài vẫn nhận biết và hiểu chúng tôi muốn nói gì. Điều làm cho những người thân “thương cảm” là cha không phải là “người thực vật” mà vẫn là con người nghe được, hiểu được nhưng chỉ trả lời bằng những dòng lệ. Người lau khô những dòng lệ này chính là cô cháu gái của cha, ngày đêm bên cạnh cha ... Tạm biệt cha ra về, cô cháu tiễn chúng tôi tới cửa: “... cô chú nhớ cầu nguyện cho cha...”. Có những tiếng nấc nghẹn ngào!!! Chân bước, nhưng lòng như trống vắng. Tới trước hang đá phía sau nhà thờ Ngã Sáu Chợ Lớn (ngay cổng vào khu nhà hưu dưỡng), nhìn lên tượng Đức Mẹ, tôi chợt nhớ tới câu kết của bài hát Dâng Mẹ. Cha Hoài Đức viết : “Mẹ chính là Nữ vương, là Trạng sư, là Mẹ con”. Tôi gục đầu xuống. Nhà tôi quỳ bên cạnh. Hai đứa im lặng. Đầy ắp những suy tư : Những ngày cuối của một người thầy, người anh, người bạn? Thân phận một linh mục tài ba? Và “Mẹ là Trạng sư...?”
Cha ở đây cho đến ngày nay, vẫn chưa có quyền công dân, chưa có hộ khẩu! Và cha đang “chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng của cuộc đời trong bàn tay Đấng Toàn ái Vô biên”! Rất hy vọng cha sớm được trả lại “Quyền Công dân Nước Trời” và “Hộ Khẩu Thường Trú” trên nơi Thiên Quốc!!!

A 4


*TÁC PHẨM.
Nhạc đoàn Lê bảo Tịnh được thành lập từ năm 1945. Cha Hoài Đức tham gia nhạc đoàn này vào tháng 09 năm 1946. Nhạc sĩ Hùng Lân là Đoàn Trưởng. Sau khi thầy Hoài Đức làm linh mục (1960), Anh Hùng Lân nhường lại chức vụ Đoàn Trưởng nhạc đoàn cho ngài.Về sáng tác, cha Hoài Đức đã bắt đầu viết từ năm 1945.Trong toàn bộ tác phẩm của cha, 87 bài Thánh Ca, có thể tạm chia ra như sau :
a. Những sáng tác theo “ngẫu hứng” và những sáng tác theo “nhu cầu Phụng vụ”.
Đây là những tác phẩm từ năm 1945 tới 1975. Về ngẫu hứng, có khá nhiều bài ca mang tính “phổ thông, đại chúng”, nét nhạc gần gũi với tâm tình người Việt, mặc dầu không mang âm hưởng nét dân ca nào rõ rệt. Thí dụ : Cao cung lên, Mùa Đông năm ấy, Dâng Mẹ, Cung chúc Trinh Vương ... Về đề tài nhu cầu phụng vụ, là những tác phẩm viết theo các “Ý lễ”, thí dụ : Tôi Tin (Kinh Tin Kính), Thánh Tâm Giê-Su Vua, Này Con là Đá ...Ngoài ra, trong “luồng nhạc” thời kỳ này, cha Hoài Đức đã thành công khi đưa âm hưởng “bình ca” vào lời Việt : Tôi sẽ tiến lên, Bí tích Nhiệm mầu...
Kể từ biến cố “30 tháng 4 năm 1975”, Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh ngưng hoạt động. Và các trại “Cải Tạo” được mở ra trên toàn quốc. Linh mục Hoài Đức cũng như một số thành viên nhạc đoàn có dính dáng tới “chế độ cũ” đều được “ưu ái” giáo dục tại các trại này ... Kẻ “tiến bộ” trước, người tiến bộ sau, lần lượt được thả về. Cha Hoài Đức là người có lẽ về sau cùng (1987), trong số các anh em nhạc đoàn. Khi trở về, chức vụ Đoàn Trưởng Nhạc Đoàn anh em vẫn tín cẩn dành cho cha, mặc dầu cha rất e ngại vì nhiều lý do ... và miễn cưỡng chấp nhận. Kể từ đó, nhạc đoàn LBT sinh hoạt trở lại trong “âm thầm”!!!
b. Những tác phẩm mang tích cách "bài bản".
Cũng xin nói cho rõ, ở đây, tôi “nhìn” theo khía cạnh kỹ thuật dàn dựng một bản nhạc và lời ca mà bản nhạc chuyển tải. Gồm những tác phẩm từ năm 1977 tới năm 1990. Được hân hạnh làm việc với ngài khi chuẩn bị cho Cung Thánh 17,vì thế, tôi biết rất rõ về những tác phẩm trong giai đoạn này. Hầu hết cha Hoài Đức viết trong thời gian ở tù (19771987) và tới năm 1990 mới hoàn chỉnh, nhất là phần hoà âm, sau khi được anh Thiên Quang nhuận sắc phần này. Trong tất cả các tác phẩm cha viết từ năm 1945 tới 1975, hình như không bài nào có quá 2 bè. Phần lời ca, cũng rất ít lấy ý từ các thánh vịnh, thánh thi. Ngược lại, giai đoạn 19771990, tác phẩm mang tính “kinh điển” với phần nhạc nhiều bè, hoà âm rất “chặt chẽ”. Lời ca hầu hết lấy từ thánh vịnh, thánh thi. Thí dụ : Bài ca Hiệp nhất (Tv 132), Có Chúa chăn dắt (Tv 22) ... Chính vì những yếu tố vừa kể : nhạc – lời ca, chúng tôi xin gọi những tác phẩm trong thời gian này là “những tác phẩm mang tính cách bài bản”.
*THAY LỜI KẾT : Một ước vọng chân thành : những ai đọc tới vài dòng trên đây, những bà con thân thuộc, bạn bè xa gần, nhất là những “học trò cũ”, xin hãy chia sẻ với Linh mục Nhạc sĩ Hoài Đức. Chia sẻ bằng lời cầu nguyện, bằng những nâng đỡ... để những ngày tháng “đền tội”này (có thể là “tội” của chính ngài, nhưng cũng có thể là “tội” của những người khác mà Chúa muốn ngài “đền thay”!) bớt nặng nề và nhất là “thời gian”, xin Chúa và Mẹ “rút bớt lại”!!!

Viết thêm : Và ngày 08 tháng 07 năm 2007, người viết nhận được một thông báo của Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh như sau :
“…Cha Giuse Hoài Đức đã tạ thế lúc 22 giờ 20 phút ngày 07/07/2007 tại nhà Hưu Dưỡng Hà nội....”
Như thế, cha Hoài Đức đã có 84 tuổi thọ.Tám mươi tư năm trên dương thế, những mất mát cha Hoài Đức đã trải qua: 10 năm “cải tạo”. 10 năm “liệt giường”!
Ghi lại những dòng này, lòng tôi như bớt nặng nề…Kể từ 22 giờ 20 phút ngày 07/07/07 “thời gian”, Chúa và Mẹ đã “rút bớt lại”. Và cha Hoài Đức đã trở về Nhà Cha nơi an nghĩ trong vòng tay Đấng Toàn Ái Vô Biên và xum vầy với Mẹ Maria cùng các thánh. Với Niềm tin và Hy vọng, Xin tạ ơn Thiên Chúa và Mẹ Maria !

A 0

Tượng bán thân Linh mục Giuse Lê Đức Triệu nhạc sĩ Hoài Đức đặt tại khuôn viên tu viện Anh Em Đức Mẹ Người Nghèo

Để ghi nhớ những đóng góp của Linh mục nhạc sĩ Hoài Đức, Ủy ban Thánh Nhạc của Hội đồng Giám mục Việt Nam và Nhạc Đoàn Bảo Tịnh đã tổ chức biểu diễn chương trình Thánh ca Hoài Đức vào ngày 08 tháng 07 năm 2010 tại Thánh đường Giáo xứ Đa Minh Ba Chuông.
Ngày 03 tháng 09 năm 2007, nhằm ghi nhớ công lao trong nền thánh nhạc Việt Nam của ngài, một bức tượng bán thân của Nhạc sĩ Linh mục Hoài Đức do Nguyệt san Thánh nhạc ngày nay và các thân hữu của ngài đã được đặt tại khuôn viên tu viện Anh Em Đức Mẹ Người Nghèo sau đó được chuyển tới Vườn tượng nhạc sĩ công giáo Việt Nam của tòa soạn Nguyệt san Thánh nhạc ngày nay. Bức tượng được khởi công ngày 14 tháng 08 năm 2007 ngay sau khi ngài mất.
Ghi nhận : Trước năm 1975, Linh mục Hoài Đức là một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, đảm trách chức vụ quản lý Toà tổng Giám mục Ban Mê Thuột, nguyên giám đốc Caritas của giáo phận Ban Mê Thuột – một tổ chức chuyên hoạt động xã hội trong lĩnh vực từ thiện, bác ái, đã đóng góp nhiều thành quả xã hội thiết thực cho người nghèo.
Ngày 08 tháng 09 năm 1970, chính quyền Việt Nam Cộng hòa Sài Gòn (trước 1975) đại diện Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuộtđại tá Tỉnh trưởng của Đắc Lắc đã trao tặng huy hiệu "Đệ Nhất Hạng Xã Hội Bội Tinh" cho nhạc sĩ Hoài Đức nhằm ghi nhận những đóng góp của ngài cho xã hội lúc đó.


* PHỎNG VẤN TÁC GIẢ “CAO CUNG LÊN”
(Mạn phép trích dùng bài phỏng vấn của ông Lê Đình Bảng, thực hiện Noel 1996)
PV. Cao Cung Lên (CCL) là một hiện tượng, một trong những bản Thánh ca Giáng Sinh đựơc nhiều người biết, hát thuộc lòng và mến mộ nhất. Cha có thể cho biết thời gian sáng tác và cảm hứng lúc ấy?

Linh mục Hoài Đức (Lm.H.Đ) : Năm 1945, Đại chủng viện Xuân Bích tạm đóng cửa, vì quân đội Trung Hoa chưng dụng cơ sở chủng viện đê đóng quân, các chủng sinh phải sơ tán về nhà quê, địa phương gần đó. Tôi về Bút Đông (Nam Định cũ-NV), xứ sở của Linh mục bảo dưỡng tôi là Linh mục Trần Tiến Đức, và qua Noel năm 1945 ở đó. Cũng chính thời kỳ đó, tôi bắt đầu tập tễnh làm quen với sáng tác Thánh ca. Một lần, tôi cùng với cộng đoàn giáo hữu đọc kinh chiều và làm giờ viếng hang đá vừa xong, giữa lúc mọi người về thì hồi chuông nguyện nổi lên. Lúc ấy tôi cũng đang bước trên bậc thang từ trên nền nhà thờ xuống sân bên ngoài, bỗng nhiên trong trí óc tôi nảy ra một cung điệu phản phấc âm thanh của tiếng chuông đang ngân vang trên tháp chuông. Tôi liền bước chậm lại và thả hồn theo tứ nhạc đó, khi xuống tới sân nhà thờ thì trong trí óc đã hình thành xong đoạn điệp khúc CCL. Ngay lúc đó, tôi về phòng riêng chép lại điệp khúc đó và phiên khúc 1 của bài hát thì nguồn cảm hứng tắt ngấm. Tôi liền đưa bản nhạc cho Nguyễn Khắc Xuyên xem, vì Nguyễn Khắc Xuyên cũng đang ở Bút Đông. Nguyễn Khắc Xuyên khen tứ nhạc hay và hợp với bầu khí Noen, liền nhận lời đặt mấy phiên khúc sau. Nên người nào tinh ý sẽ nhận thấy ngay văn phong của những phiên khúc sau có đôi chút khác với văn phong của điệp khúc và phiên khúc 1.

Đấy là trang mở đầu của những bài thánh ca bằng tiếng Việt. Như vậy, thưa cha, trong điều kiện còn manh nha, việc khơi dòng thật khó. Vậy chứ, trường hợp và động cơ nào thúc đẩy cha đến với thánh nhạc thánh ca?
*Có thể nói là hoàn toàn ngẫu nhiên. Suốt 6 năm tu học ở Tiểu chủng viện Latinh Hoàng Nguyên, tôi không có gì xuất sắc về âm nhạc. Cũng có được tập đàn harmonium vài năm, sau vì kém mắt nên xin thôi. Tiếng thì khàn khàn, đục đục, lại ương ương, không thể hát hay được. Năm 1945, vì thời cuộc phải tạm nghỉ học triết lý ở Đại chủng viện Xuân Bích, tôi về với cha nuôi xứ Bút Đông, có Nguyễn Khắc Xuyên vốn quen biết Hùng Lân rồi. Tôi chưa có ý niệm gì về việc sáng tác nhạc cả. Nhưng chỉ có tấm lòng ước ao khao khát hoà bình cho đất nước, trước mắt là mong có hoà bình để mau được về tiếp tục học tại Đại chủng viện. Với tâm tình đạo đức cầu nguyện đó, và với cái vốn ít ỏi hiểu biết về nhạc lý cộng với chút hiểu biết sơ đẳng về tư tưởng thần học, tôi nghêu ngao mấy câu để cầu nguyện xin Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu ban cho đất nứơc VN được hòa bình. Khi đã thành hình một bài hát, tôi ghi lại và đem gởi cho anh Hùng Lân làm lễ ra mắt để xin gia nhập nhạc đoàn. Cũng vì thế mà lúc đầu bài hát ấy như sau: “Giêsu, dưới chân Chúa con sấp mình, muôn vàn thiết tha dâng lòng thờ kính. Lòng còn tha thiết tháng năm sống đời an ninh. Chúa ơi nỡ tâm ngoảnh mặt làm ngơ sao đành”. Đến sau tôi phải sửa lại thế này: “Giêsu, chúng con tới đây sấp mình, chân thành dâng Chúa tấm lòng thờ kính, đoàn con mong ước tháng năm sống đời an ninh, Chúa ơi hãy ban xuống cho VN thanh bình”
Được anh Hùng Lân khích lệ và chỉ dẫn dần dần, tôi bước vào con đường sáng tác từ đấy, nhưng vẫn không có ý sống trong âm nhạc, và chỉ sáng tác những khi nào có hứng thực về chủ đề nào nảy ra trong trí óc, và tâm hồn sống với chủ đề đó. Không ham muốn sáng tác nhiều bài.
Cha có thể phác hoạ lại hoàn cảnh lịch sử và những năm đầu của Thánh nhạc thánh ca Việt Nam ?
*Có khi phải lấy thời điểm năm 1940. Trước thời điểm đó chưa có Thánh nhạc Việt Nam. Khi nói đến Thánh nhạc là phải nói đến những bài hát trong phụng vụ. Mà tất cả nền phụng vụ bấy giờ đều được cử hành bằng tiếng Latinh. Thánh Lễ, chầu Thánh Thể phải đọc hay hát bằng tiếng Latinh. Những bài hát đều lấy từ cuốn Paroissien Romain hay cuốn Cantus Pro Festis Solemnioribus, hoặc là cuốn Cantus Officiorum in Cantus Gregoriano, và trong giờ chầu Thánh Thể thì hát những bài in trong sách Cantus Selecti Ad Bennedictionem, hoặc cuốn Cantus ad Bennedictionem (quen gọi là cuốn Biton). Đôi khi đựơc hát những bài không phải là tiếng Latinh thì hát bài bằng tiếng Pháp, chủ yếu là lấy trong cuốn Cantiques de la Jeunesse. Còn những bài hát bằng tiếng Việt thì chưa có, hay nói cách khác là chưa có ai làm ra cả. Trong miền Nam có cha Phaolô Quy và Phaolô Đạt có làm một ít bài: Thanh niên với Đức Mẹ, Thanh nên với Chúa Hài Đồng, tập cho các chủng sinh Latinh Hoàng Nguyên, hát được một vài lần rồi cũng rơi vào quên lãng.
Năm 1943 hay 1944, có một Linh mục cao tuổi, quen gọi là Cha Già Vượng, ở xứ Nam Định, một mình đã cho ấn hành những 10 cuốn Thánh ca, gồm có những bài ca lấy cung diệu ở những bài ca tiếng Pháp, hay tiếng Latinh, còn lời ngài đặt bằng tiếng Việt Nam, giọng văn đơn sơ, mộc mạc, đã được phổ biến mạnh trong một thời gian.
Còn kể đến bài hát bằng tiếng Việt Nam mà chưa được hát chính thức trong nhà thờ thời ấy, là bộ ‘Vãn Dâng Hoa’, được các hội Dâng hoa các nơi sử dụng trong mùa hoa tháng 5. Nhưng không phải là các bài Thánh ca phụng vụ, chỉ hát để dâng hoa kính Đức Mẹ. Có nhiều bộ Vãn Dâng hoa, ở địa phận Hà Nội thì khác, ở Bùi Chu thì lại khác. Có khi trong một địa phận, mỗi xứ hát một hay hai Vãn Dâng hoa khác nhau, đặc biệt về ngôn từ và cung điệu.
Tóm lại, các nghi lễ thời ấy đều làm bằng tiếng Latinh, với Linh mục chủ tế trên bàn thờ, còn giáo dân chỉ biết đọc kinh, ngắm lễ bằng tiếng Việt Nam, chứ hát lời kinh bằng tiếng Việt Nam thì chưa có, ngoại trừ ca Vãn Dâng hoa.
Rồi vào năm 1940 rở đi, đã xuất hiện những ca khúc Việt Nam hoàn toàn, nghĩa là do người Việt Nam soạn cả phần nhạc và lời, như Lê Thương với bài Đàn Xuân, Đặng Văn Hân với bài Men Cùng Sườn Non, Thẩm Oánh với bài Tâm Hồn Anh Tìm Em, rồi tới những bài hát Hướng đạo của nhóm Hoàng Quý, như trên Sông Bạch Đằng, Lửa Rừng Đêm, Nhớ Quê, tiếp những bài ca ái quốc như Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước, Tiếng Quân Ca của Văn Cao, nung nâu lòng yêu nước của mọi người nhất là những thanh niên có học. Đang lúc ấy, Hùng Lân với Thiên Phụng là những thanh niên vào lứa tuổi 20, đã nghĩ ngay đến việc tập hợp một số anh em để thành lập một nhạc đoàn chuyên soạn ra những bản Thánh ca hoàn toàn Việt Nam thay cho những bài Thánh ca tiếng nước ngoài như trước, thể hiện tinh thần dân tộc độc lập tự do của người Việt Nam, nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh ra đời từ đó.
Cha có thể nhớ lại một số tác phẩm mà cha đã sáng tác từ thủa ban đầu cho đến ngày hôm nay?
*Vì có chủ trương không ham sáng tác nhiều nên tôi nhớ mang máng con số những bài hát tôi sáng tác chỉ vào chừng 80 bài thôi; còn một số bài tôi đã nháp rồi thấy không ưng ý hay không thích nữa thì tôi bỏ luôn, cũng vào khoảng ba bốn chục bài nữa. Tôi nói thêm rằng: Thời gian sáng tác nhiều nhất là thời gian học ở Đại chủng viện, “ăn cắp” giờ học riêng để làm bài hát. Nhưng luật chủng viện không cho phép, các cha giáo sư nghiêm ngặt về vấn đề đó, thậm chí đã có cha giáo khám túi chủng sinh xem có tờ giấy nháp nào về bài hát không. Đến khi làm Linh mục rồi, ra làm việc mục vụ thì rất ít có cơ hội để sáng tác cho ra hồn nữa. Đó là kinh nghiệm của riêng tôi thôi.
(*) Lưu ý: Bài viết có sử dụng tư liệu trong sách lưu hành nội bộ “Thánh Ca Hoài Đức – Một Thời Để Nhớ”, được uỷ quyền sở hữu cho ông Phanxicô Assidi Lê Đình Bảng.

A 3

Nguồn tin: Tổng hợp các Bài viết

Tổng số điểm của bài viết là: 20 trong 4 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 4 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây