Chủ đề: Linh mục, người xây dựng Giáo Hội
Tuần Tĩnh Tâm hàng Giáo Sĩ Giáo Phận Ban Mê Thuột bắt đầu vào chiều thứ Hai ngày 08 tháng 11 năm 2021, đến chiều tối thứ Năm ngày 11 tháng 11 năm 2021.
Do tình hình dịch bệnh Covid-19 kéo dài, năm nay (2021), các Linh mục và Phó tế đang mục vụ tại Giáo phận Ban Mê Thuột không thể quy tụ về Tòa Giám Mục để tham dự Tuần Tĩnh Tâm Thường Niên như thông lệ.
Vì thế, Tuần Tĩnh Tâm được tổ chức theo từng nhóm nhỏ vài người hoặc nếu điều kiện không thể tụ họp thì từng cá nhân tĩnh tâm trong tình hiệp thông và nghe giảng chung với nhau qua đường trực tuyến (online). Chủ đề: LINH MỤC, NGƯỜI XÂY DỰNG GIÁO HỘI do Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Giáo phận hướng dẫn.
Trong tuần tĩnh tâm, Đức Cha giảng phòng sẽ lần lượt trình bày chủ đề, gồm 6 phần chính sau đây:
1/ Xây dựng Giáo Hội trên nền tảng các Tông Đồ (Mt 16, 13-19)
2/ Xây dựng Giáo Hội bị thương tích (2Co 4, 7-12)
3/ Xây dựng Giáo Hội bằng Lời Chúa (Ga 17, 11b-19)
4/ Xây dựng Giáo Hội trong tinh thần phục vụ (Ga 13, 1-15)
5/ Xây dựng Giáo Hội bằng tấm lòng của người mục tử (Ga 10, 11-18)
6/ Linh mục, con người mới trong một Giáo Hội mới (Ga 1, 43-51)
Linh mục là những người phục vụ dân Chúa, được thánh hóa qua các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và huấn quyền của Giáo Hội. Linh mục được Chúa ban cho mọi ơn lành cần thiết, được Giáo Hội đào tạo qua nhiều hình thức, để trong mọi hoàn cảnh, luôn đứng vững trong đức tin, và hướng dẫn cộng đoàn dân Chúa bước đi trong ánh sáng của Ngài.
Trong thế giới hôm nay, người linh mục đang phải đối diện với nhiều thử thách, đến từ bên ngoài lẫn bên trong Giáo Hội. Trước đây, hầu như mọi người đều tôn trọng những điều thuộc về đời sống đức tin và cách tổ chức của Giáo Hội, nên người linh mục thi hành chức vụ của mình với một sự xác tín, với một sự bảo đảm nào đó về phía Giáo Hội, cũng như nơi người tín hữu. Ngày nay, trước một số vấn đề tiêu cực xảy ra trong Giáo Hội, dư luận đang áp lực lên chính quyền dân sự để họ can thiệp nhiều hơn về những vấn đề liên quan đến các định chế trong Giáo Hội. Người ta đặt ra nhiều vấn đề như: bí mật ấn tín tòa giải tội, độc thân linh mục, phong chức linh mục cho phụ nữ, có nên cho các trẻ em đến nhà thờ không... Giáo Hội ở Bắc Mỹ, Úc châu đã trải qua nhiều sóng gió, và hiện nay đến các Giáo Hội tại châu Âu. Tại Việt Nam, một số người thiếu thiện cảm với Giáo Hội công giáo, nhân dịp này, đang tìm cách tấn công vào sự thánh thiện của Giáo hội, phóng đại những yếu đuối của một số linh mục, để làm cho nhiều người tín hữu phải hoang mang. Nhiều người tín hữu đạo đức và hiểu biết tiếp tục cầu nguyện cho Giáo Hội cho các vị mục tử đứng vững trong cơn thử thách. Những người đang có vấn đề với cách quản trị của Giáo Hội có lý do để tiếp tục duy trì một khoảng cách nào đó. Người linh mục quản xứ, từ lâu được xem như người mục tử, người cha trong đời sống đức tin, nay phải trở nên dè dặt hơn trong cách giảng dạy, trong cách biểu lộ tấm lòng của người mục tử, trước sự dè dặt của những bậc cha mẹ.
Những điều đó cho thấy rằng người linh mục hôm nay, nếu muốn tiếp tục thi hành sứ vụ của mình như người mục tử giữa lòng dân Chúa và trong một xã hội thế tục, cần phải biết xác định về ơn gọi cao quý của mình, biết dựa vào nền tảng Lời Chúa và huấn quyền của Giáo Hội để nuôi dưỡng đời sống đạo đức của người tín hữu, thi hành đời sống mục vụ; đồng thời cũng phải biết liên kết hiệp thông với Giám mục giáo phận và anh em linh mục, để có thể thi hành sứ vụ theo đường hướng mục vụ của Giám mục giáo phận. Dẫu cho sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng chúng ta cùng nắm tay nhau xây dựng niềm tin, xây dựng Giáo Hội. Nhiệm vụ xây dựng Giáo Hội là trách nhiệm của tất cả mọi người, nhưng người linh mục thánh thiện, yêu mến Chúa và yêu mến con người, đóng góp một phần rất quan trọng.
Thời gian tĩnh tâm giúp các linh mục nhìn lại đời mình dưới ánh sáng của lòng nhân từ Chúa, và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để có thể nhận ra đâu là điểm cốt yếu, đâu là điều mà Chúa và Giáo Hội đang mong muốn nơi linh mục: những người được Chúa yêu quý và mời gọi cộng tác với Ngài.
Sáng thứ Ba, ngày 09.11.2021
Buổi sáng ngày 09.11.2021, Đức Cha Vinh Sơn -Giám mục Giáo phận, bắt đầu chia sẻ Phần thứ nhất của chủ đề LINH MỤC, NGƯỜI XÂY DỰNG GIÁO HỘI:
I/ Xây dựng Giáo Hội trên nền tảng các Tông Đồ (Mt 16, 13-19)
13Khi Đức Giêsu đến vùng (kế cận thành) Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” 14Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.” 15Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” 16Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” l7Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.”
1/ Bối cảnh: Câu chuyện thánh Matthêu kể lại trong bài Tin Mừng xảy ra trong vùng Cêsarê Philipphê, chứ không phải là vùng “kế cận thành”. Người ta thắc mắc: vùng này có gì đặc biệt và tại sao khi đến vùng đất này Chúa Giêsu mới đặt vấn đề căn tính của Ngài: “Con Người là ai”, và từ đó, có lời tuyên xưng đức tin tuyệt vời của thánh Phêrô?
Chúng ta biết là trên đất Do-thái thời Chúa Giêsu, có 02 thành mang tên Cêsarê. Một cái gọi là Cêsarê miền duyên hải, nằm trên bờ Địa Trung Hải, có một hải cảng quan trọng mà sách TĐCV thường nhắc đến khi kể về những cuộc hành trình của thánh Phaolô. Cái khác nằm ở phía bắc, dưới chân núi Hermon, giáp với nước Liban và Syrie ngày nay. Nơi này có những dòng suối từ núi chảy ra làm thành sông Jodan, nguồn nước ngọt quan trọng cho vùng Palestine.
Vào thời Chúa Giêsu, thành phố này khá nổi tiếng. Ở đây, vua Herode Cả (người đã ra lệnh giết các hài nhi ở Belem khi Chúa Giêsu sinh ra), đã xây dựng một ngôi đền thờ kính hoàng đế La-mã César Auguste (người ta coi hoàng đế là vị thần) và, trước khi qua đời, ông đã chia vương quốc của mình cho 03 người con trai, mỗi người quản trị một vùng. Banias, vùng đất của các vị thần, được dành cho Philipphe. Ông này đã chọn nơi đó như là thủ đô của vương quốc, đặt tên cho nó là Cêsarê Philipphê, để phân biệt với thành Cêsarê miền duyên hải nằm bên bờ Địa Trung Hải. Trong thời Philipphe cai trị, vùng này được phát triển cả về kinh tế lẫn văn hóa: phát hành tiền xu, các đền thờ, nhà tắm công cộng, các nhà hát...
Ở đây một sự kiện quan trọng xảy ra trong Kitô giáo. Chúa Giêsu đã đến đó và đã hỏi các môn đệ về việc người ta nhận ra Ngài như thế nào, và sau đó đã hỏi các ông một cách trực tiếp là: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Chúng ta đã hiểu bối cảnh của việc Chúa Giêsu đặt vấn đề với các môn đệ. Giữa một nơi dành cho các vị thần, có thể là các vị thần dân ngoại, có thể là vị hoàng đế uy quyền mà người ta mặc cho lớp vỏ thần linh, nơi mà sự giàu có được biểu lộ qua cách trang trí và cách sống, Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ về sự lựa chọn căn bản trong đời sống đức tin, lựa chọn có ý nghĩa thiết thực với đời sống của người môn đệ.
Giữa muôn vàn thần tượng, giữa những thị hiếu của người đời, thì Thầy vẫn là Đấng mà các môn đệ lựa chọn bước theo và tôn thờ.
2/ Tìm hiểu bản văn:
Đoạn Tin Mừng chia làm 2 phần: phần 1 đề cập đến cách người ta hiểu về Chúa Giêsu như thế nào và câu tuyên xưng đức tin của Phêrô; phần 2 Chúa Giêsu khen ngợi cách nhận định của Phêrô và giải thích ý nghĩa tên mà Ngài đã đặt cho ông ngay lần đầu gặp gỡ (Ga 1, 42), cũng như mạc khải về ý nghĩa sứ mệnh của ông trong Giáo Hội.
a/ Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Người ta ở đây nghĩa là ý kiến chung chung của những người Do-thái mà các môn đệ đã có dịp tiếp xúc, hay là những tin đồn về Ngài.
Dựa vào đâu để người ta nhận định về Chúa Giêsu? Dựa vào lời giảng dạy, vào việc làm, vào cách sống, nghĩa là qua những cách hành sử bên ngoài mà người ta có thể thấy hoặc là nghe nói về Ngài. Các nhân vật người ta nói đến đều là những vị tiên tri có tiếng tăm đối với người Do-thái: Gioan Tẩy Giả, Êlia và Giêrêmia.
Gioan Tẩy giả là một vị tiên tri cùng thời với Chúa Giêsu. Lời rao giảng của ông có sức thuyết phục đến nỗi mà toàn dân Israel thuộc đủ mọi thành phần và từ khắp nơi đều tuôn đến bên bờ sông Jordan đề nghe ngài giảng và xin chịu phép rửa thống hối.
Còn Êlia là một vị tiên tri lớn của thời Cựu Ước, ông có công bảo vệ lề luật Chúa khỏi tinh thần sa đọa của những vua chúa mất niềm tin, và người Do-thái nghĩ rằng ông sẽ trở lại trần gian trước khi Đấng Cứu Thế đến để dọn đường cho Ngài bằng cách tái lập lại trật tự trong xã hội và trong đạo Do-thái (Mt 17, 9-12).
Điểm đặc biệt là Matthêu nhắc đến tên Giêrêmia. Giêrêmia là một trong số các vị tiên tri lớn, phải chịu đựng nhiều sự nghịch lý từ hàng ngũ các tư tế và những người lãnh đạo trong dân.
Khi Chúa Giêsu hỏi “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Phêrô, vì là người trưởng nhóm, không ngần ngại trả lời ngay “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Chúng ta để ý lời tuyên xưng Chúa Giêsu là “Con Thiên Chúa” đã được nói đến trong biến cố Chúa Giêsu đi trên mặt nước (Mt 14, 22-33). Đối với Phêrô, Thầy còn cao hơn tất cả các tiên tri khác, vì Thầy là Đấng Cứu Thế, Thầy được sai đến trần gian để làm cho Nước Thiên Chúa được hoàn tất.
b/ Chúa mạc khải cho Phêrô:
Trước lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, Chúa Giêsu mặc khải một điều kỳ diệu: “Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải xác thịt và máu huyết mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 17-18).
Chúa xác nhận điều Phêrô tuyên xưng là một hành vi đức tin, phát xuất từ Thánh Thần, vì không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Chúa mà không phải là do Thánh Thần soi sáng.
+ “Anh thật là có phúc”: lời chúc phúc này được Chúa dùng trong 8 mối phúc, mở đầu cho Bài Giảng Trên Núi (Mt 5, 3-1l). Ở đây, chúng ta thấy thấp thoáng lời khen cũng như là lời Chúa nói với Nathanael trong lần gặp mặt đầu tiên: “Đây đích thật là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1, 47).
+ Chúa Giêsu phân biệt nguồn gợi hứng cho lời tuyên xưng đức tin của Phê-rô: “xác thịt và máu huyết” và “Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Cách phân biệt này cũng thường gặp trong Tin Mừng (Ga 1, 13; 8, 15; Mt 26, 41; 1Co 15, 50). “Xác thịt và máu huyết” nghĩa là theo bản tính tự nhiên của con người chưa được biến đổi, còn “đến từ Chúa Cha” nghĩa là được Chúa Thánh Thần soi sáng.
Tuy nhiên, khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn, Phêrô cảm thấy chói tai nên ngăn cản, và bị Chúa Giêsu quở trách: “Satan, lui lại đùng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư trong của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23). “Anh cản lối Thầy” là cách dịch cho dễ nghe, nhưng phải dịch là anh là dịp làm cho tôi vấp ngã” (ska,ndalon ei=evmou/).
3/ Gợi ý Suy niệm:
+ Lời tuyên xưng đức tin của Phêrô đã mở ra một hướng mới cho Chúa Giêsu trong việc thành lập Giáo Hội trong tương lai. Ngài có thể tin cậy vào sự cộng tác của con người, dẫu cho Ngài thấy rõ sự bất toàn nơi con người ấy.
+ Nơi con người của Phêrô biểu lộ luôn cả hai tính cách “thuộc về Thánh Thần” và “thuộc về xác thịt”.
a/ Khi Phêrô biết suy nghĩ theo Thánh Thần, ông là viên đá góc xây dựng Giáo Hội. Chúa đã thấy lòng yêu mến của ông ngay từ phút đầu gặp gỡ, nên vừa gặp ông lần đầu, ngài đã nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô); và sau này Ngài giải thích: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá trên táng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Phêrô là Tảng Đá không chỉ khi tuyên xưng đức tin, nhưng ngay cả khi sợ hãi, yếu đuối, ông vẫn luôn là điểm tựa cần thiết cho các tông đồ khác.
b/ Khi Phêrô suy nghĩ theo tính xác thịt, ông trở thành viên đá làm cho vấp ngã (scandal), không chỉ cho Chúa Giêsu, mà còn cho những người khác, làm hại cho Giáo Hội nữa. Phêrô có thể là viên đá làm cho vấp ngã khi từ chối chấp nhận sự cần thiết của cuộc khổ nạn (Mt 16, 21-23), khi không biết nghe lời Chúa cảnh cáo (Lc 22, 23-24).
Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta thấy nhân vật Phêrô nổi bật như là người “đầy Thánh Thần”, người của đức tin, được Chúa Giêsu khen ngợi; nhưng chỉ một thoáng sau, chỉ vì để cách suy nghĩ của mình vượt nên trên cách suy nghĩ của Chúa, mà ông đã trở nên dịp vấp phạm cho chính Ngài và các môn đệ khác.
Khi đã trở nên con người của đức tin sau biến cố Phục Sinh, ý thức về việc Chúa đã chọn ông giữa các anh em để rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại (Cv 15, 7-11), có lúc Phêrô vẫn còn là viên đá làm cho anh em vấp phạm, ví dụ như đối với Phaolo về việc cắt bì hay không cho các anh em dân ngoại trở lại ở Antioche (Gl 2, 11).
4/ Áp dụng vào đời sống
+ Là linh mục, tôi được mời gọi trở thành người cộng tác với Chúa Giê-su trong việc rao giảng Tin Mừng và xây dựng Giáo Hội. Bí tích truyền chức ban cho tôi những ơn cần thiết để sống một cách có ý nghĩa đời sống của người mục tử. Tôi có biết phân định những việc mình cần làm dựa trên nền tảng đức tin của các Tông Đồ theo lời chạy của Giáo Hội không?
+ Là người có trách nhiệm gìn giữ đức tin cho cộng đoàn đần Chúa, linh mục cũng giống như Phêrô, có trách nhiệm xây dựng cộng đoàn bằng chính đời sống đức tin của mình. Tôi có dùng mọi khả năng Chúa ban để phục vụ dân Chúa, hay tôi làm cớ vấp phạm cho anh chị em tín hữu?
+ Tôi có hiểu rằng những lời nói và việc làm của mình có ảnh hưởng trên đời sống đức tin của người tín hữu không? Những lời giảng dạy, những lời khuyên bảo theo chiều hướng tích cực mang lại niềm hy vọng cho người tín hữu. Trái lại, những lời nói thiếu trách nhiệm, thiếu tôn trọng người khác, nơi miệng của người mục tử, sẽ để lại những vết thương trong lòng người tín hữu.
+ Nơi con người của Phêrô xuất hiện cả hai khía cạnh: con người của đức tin, là đá tảng, và con người yếu đuối, người làm cho người khác bị vấp phạm. Tôi có hiểu được rằng nếu tôi thiếu sự khiêm tốn trong khi thi hành chức vụ, tôi sẽ bước ra ngoài vòng ánh sáng của Chúa?
+ Chúa thấy rõ điểm yếu của tôi, nhưng Ngài vẫn luôn cầu nguyện cho tôi đứng vững và là điểm tựa nâng đỡ anh chị em của tôi.
Cầu nguyện: Xin cho con ý thức về con người yếu đuối của mình, và luôn biết khiêm tốn tựa nương vào Chúa.
Chiều thứ Ba, ngày 09.11.2021
Buổi cùng ngày, Đức Cha Vinh Sơn -Giám mục Giáo phận, tiếp tục chia sẻ Phần thứ hai:
II/ Xây dựng một Giáo Hội bị thương tích (2Co 4, 7-12)
7Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. 8Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. 10Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. 11Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nói thân xác phải chết của chúng tôi. 12Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em.
1/ Bối cảnh:
Sau khi Phaolô viết thư 1Co vào khoảng cuối năm 56 hay đầu năm 57, Timôthê đã đến Corinthe. Tình hình ở Corinthe càng ngày càng xấu do các ngụy tông đồ có thái độ thù nghịch với Phaolô (2Co 11, 12-15). Timôthê trở về Ephese trình lại với Phaolô. Ngài đã viết thư 2Co để biện minh rằng sứ vụ tông đồ của ngài khác với những người đó.
Phaolô minh chứng rằng Thiên Chúa đã giao cho các Ngài công việc phục vụ Tin Mừng, nên các Ngài kiên tâm trình bày sự thật, không nản lòng trước những lời gièm pha của những kẻ muốn hạ uy tín của các Ngài. Các Ngài không rao giảng chính mình mình, nhưng rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa, còn các ngài chỉ là những người đầy tớ của cộng đoàn (2Co 4, 1-6).
2/ Phân tích bản văn:
+ “Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chúa đựng trong những bình sành”:
“Kho tàng” được đề cập ở đây là gì? Phải chăng đó là câu kết của đoạn trước: “Sự hiểu biết về vinh quang Thiên Chúa trên khuôn mặt của Đức Kitô”? (2Co 4, 6).
“Chiếc bình được làm bằng đất”: cách nói này có thể ám chỉ đến sự mỏng dòn của con người Phaolô (2Co 12, 7-10; Gl 4, 14). Chúng ta cũng có thể hiểu như là “thân xác bằng đất”, ám chỉ đến trình thuật của St 2, 7, được Phaolô lấy lại trong Rm 9, 21-24 là 1Co 15, 44b-49.
+ C 8-10: những hình ảnh diễn tả giống như thân phận của một người chiến sĩ giác đấu, nếu không có sự sống của Đức Kitô thì chắc các ngài cũng đã bị đè bẹp từ lâu rồi.
+ C 11-12: Sự nguy hiểm mà các tông đồ phải trả giá, là để cho sự sống của Đức Kitô được tỏ hiện nơi thân xác yếu đuối của các ngài, và qua đó, các tín hữu có một niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa.
+ Với những nét mà Phaolô kể ra như: “bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp, hoang mang, nhưng không tuyệt vọng, bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt”, đây là những nét của một người chiến binh dày dạn kinh nghiệm, với một ý chí kiên cường, chứ không đơn thuần là những dụng cụ mỏng dòn đâu.
3/ Áp dụng thực tế:
+ Là những người yêu mến Chúa Giêsu, chọn Chúa làm gia nghiệp, chúng ta trở thành nhân chứng của Ngài. Thế nhưng dầu gì đi nữa, chúng ta cũng chỉ là những con người được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa. Vì thế, trong đời sống thường ngày, có những lúc chúng ta đã không hoàn toàn diễn tả được khuôn mặt của Thiên Chúa qua đời sống của chúng ta. Trong lời chứng của mình, xen lẫn sức mạnh của Thiên Chúa và sự yếu đuối của con người.
+ Mỗi người chúng ta có thể thấy được thiện chí cũng như sự cố gắng của mình. Mình biết mình yêu mến Chúa đến đâu, mình biết lý do tại sao mình có thái độ như thế này hay thế khác, nhưng người ngoài họ không dễ gì nhận ra điều đó một cách rõ ràng như chúng ta đâu. Vì thế, nhiều khi họ hay kết án chúng ta. Họ kết án theo cảm tính, nhiều khi không có chứng cứ gì cả. Họ thiếu thông cảm, vì họ muốn nhìn thấy một chứng từ của những người thuộc về Chúa một cách khác hơn.
+ Ý thức được sự mỏng dòn của mình, chúng ta cố gắng khắc phục, nhưng đó không thể là công việc của một sớm một chiều. Chỉ khi nào người mục tử biết sống khiêm tốn, tựa nương vào sức mạnh của Chúa, chứ không phải dựa vào sức mạnh và sự khôn ngoan của riêng mình, mới có thể để cho Chúa hành động nơi bản thân mình.
+ Người ta đòi hỏi các linh mục nhiều điều lắm. Các linh mục càng có nhiều tài năng, thì càng có nhiều người yêu quý. Thế nhưng, đây cũng là một thử thách lớn cho các linh mục. Khi được yêu quý nhiều, nhất là được hâm mộ, người linh mục cần ý thức mạnh mẽ hơn về sự mỏng dòn của mình. Đừng liều lĩnh hoặc coi thường, vì rất dễ bị ngã.
+ Chúng ta cũng nên nhớ rằng người anh em linh mục yếu đuối, là người thân của chúng ta, là người cùng với chúng ta làm nên linh mục đoàn, làm nên thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội. Chúng ta có trách nhiệm cầu nguyện cho nhau đứng vững trong đức tin và xây dựng tình hiệp nhất.
Tóm lại, vì chúng ta là những con người chấp nhận bơi ngược dòng nước, chúng ta hiểu rằng qua những yếu đuối của chúng ta, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu và sức mạnh của Ngài. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần cộng tác với Ngài một cách tích cực hơn để làm chứng là chúng ta đang thuộc về Ngài.
Lời tâm niệm: Lạy Chúa, xin cho con biết sống khiêm tốn và thông cảm với mọi người.
(tiếp tục cập nhật)
Ban VHTT-GP.BMT ghi chép
Nguồn tin: gpbanmethuot.com:
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn